Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Phát hiện thủ bút Trần Trọng Kim: THƯ GỬI HOÀNG XUÂN HÃN NĂM 1947

Thủ bút Trần Trọng Kim
Thư gửi Hoàng Xuân Hãn năm 1947

Nguyễn Đức Toàn
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Namquốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.

Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.

Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt. 

Nội dung như sau :
Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để Ngài4xem.
            Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5, hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9, không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà thôi, thật là:       
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng (Công chi thủ tội chi khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
            Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
            Đất khách mơ - màng những thở - than,
            Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
            Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
            Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19 gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
                                                            Nay kính thư
                                                                        Trần Trọng Kim [tr4]
Chú thích :

1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.

2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội.

3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.

4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)

5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Lại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.

6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)

7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)

8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...

9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6 mới lên bờ.”

10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)

11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”.

12. Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.

13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.

14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)

15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)

16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.

17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)

18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.

19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)

20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)

21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.

22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.

23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)

24. Chương : Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd).
_____________
Thư mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)

Phụ lục ảnh nguyên bản:
.
 



 


Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

ĐÃ CÓ ĐỦ CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ THÀNH LẬP MỘT ĐẢNG KHÁC NGOÀI ĐẢNG CSVN?

Đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam?
LS Nguyễn Lệnh
29-08-2013

Trước khi Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam ra đời năm 1946, có gần 30 tổ chức có mục đích chính trị, hoạt động công khai hay bí mật tùy theo đường lối, lập trường của tổ chức đó. Những tổ chức có mục đích chính trị này (không phải là tổ chức có mục đích kinh tế, xã hội…) thường đặt tên cho mình là hội, đảng, mặt trận, liên đoàn, liên minh, liên hiệp … Xin liệt kê tên các liên minh và đảng phái chính trị Việt Nam vào thời kỳ trước khi có Hiến pháp 1946 như sau: – Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội – Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội – Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội – Việt Nam Quang phục Hội – Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – Hội Phục Việt – Đảng Lập hiến Đông Dương – Tân Việt Cách mạng Đảng – Đảng Việt Nam Độc lập – Việt Nam Quốc dân Đảng – Đông Dương Cộng sản Đảng – An Nam Cộng sản Đảng – Đảng Cộng sản Việt Nam – Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng – Đại Việt Dân chính Đảng – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đảng Dân chủ Đông Dương – Việt Nam Cách mệnh Đảng – Đại Việt Quốc gia Xã hội Đảng – Đảng Xã hội Việt Nam – Đại Việt Duy tân Cách mệnh Đảng – Đảng Dân chủ Việt Nam – Đông Dương Cộng sản Liên đoàn – Việt Nam Dân chúng Liên đoàn – Mặt trận Quốc gia Thống nhất – Mặt trận Quốc gia Liên hiệp – Đại Việt Quốc gia Liên minh …(*)

Như vậy, một “tổ chức chính trị” – tức là tổ chức có mục đích chính trị, trước năm 1946 có thể mang những tên khác nhau như: Đảng, Hội, Mặt trận, Liên đoàn, Liên minh, Liện hiệp … và để xác định xem hiện nay đã có đủ căn cứ pháp lý hay chưa cho việc thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta cần phải xem xét một cách đầy đủ các văn bản pháp luật đã được ban hành từ trước đến nay và còn hiệu lực về vấn đề này như sau:

1/ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 9/11/1946:

Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 10: “Công dân Việt Nam có quyền: -Tự do ngôn luận – Tự do xuất bản – Tự do tổ chức và hội họp – Tự do tín ngưỡng – Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.”

Vì lúc bấy giờ chưa có Luật để giải thích “quyền tự do tổ chức” trong Hiến pháp 1946 là như thế nào nhưng có thể hiểu là: quyền tự do thành lập và tham gia những tổ chức hoạt động có mục đích chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp … Hiến pháp 1946 không có một dòng chữ nào đề cập đến vai trò của bất cứ tổ chức chính trị nào đang hoạt động kể cả Đảng Cộng sản Việt Nam.

2/ Hiệp định Genève 1954 phân chia nước Việt Nam thành 2 quốc gia với 2 chính thể khác nhau:

- Ở miền Nam: Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (1954 – 1975) tiếp tục áp dụng chế độ đa đảng trong 21 năm. Có tổng cộng 8 tổ chức chính trị, hợp pháp lẫn không hợp pháp là: – Đảng Dân chủ Nam Việt Nam – Đảng Cần lao Nhân vị – Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam – Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam – Đại Việt Quốc dân Đảng – Đại Việt Cách mạng Đảng – Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam – Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (*).

- Ở miền Bắc: Quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tiếp tục duy trì chế độ đa đảng cho đến khi ban hành Luật quy định quyền lập hội năm 1957, trong đó có quy định về việc “phải xin phép lại” đã làm giảm rất nhiều các tổ chức chính trị thành lập trước ngày ban hành luật này.

3/ Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 Quy định quyền lập hội:

“Quyền lập hội” là thuật ngữ được Luật ngày 20/5/1957 này sử dụng chính thức thay cho “Quyền tổ chức” trong Hiến pháp 1946 với những điều quy định quan trọng như sau:

- Điều 1: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”.

Quy định tại Điều 1 này không giới hạn lĩnh vực hoạt động của hội: chính trị, xã hội, nghề nghiệp …, miễn là “mục đích” phải “chính đáng, phù hợp với lọi ích nhân dân …”. Tuy nhiên, “quyền tự do tổ chức” tại Điều 10 Hiến pháp 1946 đã bị thu hẹp rất nhiều bởi các quy định tại Điều 3 và 4 về việc “lập hội phải xin phép” đối với hội mới và “phải xin phép lại” đối với hội cũ.

- Điều 3: “Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép. Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.”
Với quy định của Điều 3 này, những ai muốn lập hội mới đã phải chờ đến 46 năm thì Chính phủ mới ban hành thể lệ lập hội (30/7/2003).

- Điều 4: “Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.”

Với quy định tại Điều 4 này, hầu hết những tổ chức chính trị cũ đều không vượt qua được cửa quyền “cấp phép lại” này của Chính phủ.

- Điều 9: “Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này.”

Với quy định của Điều 9 này là nhằm dành quyền “không phải xin phép lại” cho những tổ chức chính trị đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất (1930 – 1945) do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ xướng hình thành và là thành viên tích cực với vai trò lãnh đạo.

- Điều 10: “Các hội có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này.”

Với quy định của Điều 10 này có thể tạm định nghĩa hội theo Luật năm 1957 là những tổ chức hoạt động có các mục đích chính trị, xã hội, nghề nghiệp…nhưng không có mục đích kinh tế (vì lợi nhuận) và phải được Chính phủ cấp phép hoạt động.

Trên thực tế, từ ngày Luật quy định quyền lập hội được ban hành năm 1957 đến ngày Việt Nam thống nhất năm 1975, chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn duy trì chế độ đa đảng nhưng chỉ còn lại 3 tổ chức chính trị. Đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam.

Có thể nhận thấy Luật quy định quyền lập hội năm 1957 này đã quy định rất thoáng về điều kiện thành lập hội: Chỉ cần “có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”. Nhưng cũng với quy định về việc “phải xin phép lại” đối với hội đã thành lập và “lập hội phải xin phép” đối với hội mới – mà Chính phủ lại không ban hành “thể lệ lập hội” mới, nên đến năm 1975 chỉ còn lại có 3 đảng hoạt động hợp pháp nói trên.

4/ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 31/12/1959:

Hiến pháp 1959 có nói đến vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 ở phần Lời nói đầu.

Quyền lập hội được quy định tại Điều 25 của Hiến pháp: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”

Như vậy là cả Hiến pháp 1959 và Luật quy định quyền lập hội 1957 đều thừa nhận chế độ đa đảng.

5/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 18/12/1980:

Điều 4 Hiến pháp 1980 quy định rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Các tồ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.

Điều 67: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập lhội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân…”

Chính 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 này đã tạo nên chế độ “độc đảng”. Đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải “tự giải thể” vào năm 1988. Còn lại duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.

6/ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/4/1992:

Điều 2: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”

Nhà nước pháp quyền với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay mọi người phải tuân theo pháp luật.

Điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng (bỏ 2 từ duy nhất) lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Trong Điều 4 này đã bỏ đi 2 từ duy nhất. Điều này có nghĩa là Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng mà Hiến pháp 1980 đã quy định dành cho Đảng Công sản Việt Nam và khiến cho 2 đảng Xã hội và đảng Dân chủ phải tự giải thể năm 1988.

Điều 4 này cũng bổ sung thêm 2 từ “pháp luật” trong cụm từ “khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm tăng cường giám sát hoạt động của Đảng CSVN bằng pháp luật cho phù hợp với Điều 2 và làm giảm quyền hành quá lớn của Đảng CSVN theo Hiến pháp 1980.

7/ Tại sao Hiến pháp 1992 đã hủy bỏ chế độ độc đảng ?

Theo tôi, về mặt pháp lý, Hiến pháp 1992 phải sửa đổi, bỏ đi 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 của Hiến pháp 1980, mặc nhiên hủy bỏ chế độ độc đảng dành cho Đảng CSVN là vì 2 lý do sau:

- Đã có mâu thuẫn pháp lý ngay trong 2 điều của bản Hiến pháp năm 1980, đó là Điều 4 và Điều 67. Một khi Hiến pháp đã quy định là “Công dân có quyền tự do lập hội” – trong hội có bao gồm cả đảng, thì làm sao có thể chỉ có một đảng “duy nhất” được. Sự sai lầm của HIến pháp 1980 đã được Hiến pháp 1992 sửa sai.

- Ngày 24/9/1982 Việt Nam đã gia nhập “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị -1966″ nên phải thực hiện cam kết của mình bằng cách hủy bỏ 2 từ “duy nhất” trong Điều 4 Hiến pháp 1980 nhằm thực hiện các quyền và tự do của con người theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, trong đó có quyền tự do lập hội. Xin trích Điều 2 khoản 2 của Công ước quốc tế này như sau: “Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiên bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này” .

8/ Bộ luật dân sự đầu tiên năm 1995:

Bộ luật dân sự năm 1995 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về pháp nhân. Bên cạnh các quy định về điều kiện để được công nhận là pháp nhân (Điều 94) và pháp nhân được thành lập theo sáng kiến cá nhân, tổ chức hay theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 95) thì quy định của BLDS về các loại pháp nhân tại Điều 110 là rất đáng chú ý:

“Điều 110. Các loại pháp nhân:

1. Pháp nhân bao gồm các loại sau đây:
a/ Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang;
b/ Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
c/ Tổ chức kinh tế;
d/ Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp;
đ/ Quỹ xã hội, quỹ từ thiện;
e/ Các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật này.
2. Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân.” Căn cứ vào Điều 110 này của BLDS năm 1995 và căn cứ vào Điều 1 và Điều 10 của Luật quy định quyền lập hội năm 1957 thì có 6 loại pháp nhân sau đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Đó là: 1. Tổ chức chính trị, 2.Tổ chức chính tri – xã hội, 3.Tổ chức xã hội, 4.Tổ chức xã hội-nghề nghiệp, 5.Quỹ xã hội, 6.Quỹ từ thiện.

Như vậy, một pháp nhân được xác định là tổ chức chính trị khi có mục đích hoạt động chính trị. Đảng là một tổ chức chính trị có tư cách pháp nhân theo quy định của BLDS. Đảng là 1 trong 6 loại pháp nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật quy định quyền lập hội năm 1957.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.”

“Mục đích hoạt động” chính là nội dung cơ bản để phân biệt các loại pháp nhân được Luật quy định quyền lập hội năm 1957 điều chỉnh.

9/ Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội:

Nghị định này căn cứ Sắc lệnh số 102/SL-L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội.

Nghị định này chính là “thể lệ lập hội” mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 có quy định tại Điều 3 là “sẽ do Chính phủ quy định”. Một từ “sẽ” trong Luật quy định quyền lập hội 1957 lại bị Chính phủ kéo dài đến 46 năm (!).

Nghị định này của Chính phủ đã đưa ra một định nghĩa “khó hiểu” về hội tại Điều 2. Thậm chí, có thể nói là Nghị định đã bóp méo, đã làm sai lệch hoàn toàn ý nghĩa so với định nghĩa rất thoáng tại Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957. Xin trích dẫn Điều 2 của Nghị định:
“Điều 2. Hội 1.

Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên; hổ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

2. Hội có các tên gọi khác nhau: liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội)” .

Sự “khó hiểu” trong Nghị định chính là : – Điều 1 Luật quy định quyền lập hội 1957: “Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta” .

“Mục đích” trong Điều 1 Luật quy định quyền lập hội năm 1957 đã bị diễn giải hoàn toàn khác hẳn trong Điều 2 Nghị định Chính phủ năm 2003.

- Điều 110 Bộ luật dân sự 1995 khi phân loại các pháp nhân cũng quy định tại khoản 2 rằng: “Quy chế tổ chức và hoạt động của các loại pháp nhân do pháp luật quy định và tùy thuộc vào mục đích hoạt động của mỗi loại pháp nhân”.

“Mục đích hoạt động” bao gồm: chính trị, xã hội, kinh tế, nghề nghiệp. Đó là tiêu chuẩn để phân loại tổ chức là pháp nhân theo BLDS.

Còn khoản 2 của Điều 2 Nghị định này lại cố ý chỉ định một số tên gọi như là hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ nhằm loại khỏi Nghị định tên gọi đảng là tổ chức chính trị thường được sử dụng mà chính Luật quy định quyền lập hội 1957 đã bao gồm trong đó. Điều quy định này của Nghị định là “khó hiểu” và trái với nội dung thể hiện trong Luật quy định quyền lập hội 1957.

Tuy nhiên, Nghị định này lại công nhận các “tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội nghề nghiệp” cũng là hội, tại khoản 2 Điều 4.

Trong hệ cấp các văn bản pháp luật thì Luật cao hơn Nghị định. Vì vậy, những điểm nào trong Nghị định không rõ ràng hoặc trái với Luật thì sẽ áp dụng quy định trong Luật.

Như vậy, Nghị định Chính phủ số 88/2003NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội đã ban hành “thể lệ lập hội” căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội năm 1957. Mà Luật quy định quyền lập hội năm 1957 lại tôn trọng và bảo đảm quyền lập hội của nhân dân. Người dân có quyền tự do lập hội, miễn là lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta như đã quy định tại Điều 1 của Luật này. Vì vậy, Điều 1 của Luật quy định quyền lập hội 1957 được áp dụng thay vì áp dụng Điều 2 Nghị định Chính phủ 2003.

10/ Các căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam:

Như trình bày nêu trên, đã có đủ căn cứ pháp lý để thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Các căn cứ đó là:

- Các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) đều quy định quyền tự do lập hội của công dân.

- Sắc lệnh Luật số 102-SL/L-004 ngày 20/5/1957 quy định quyền lập hội trong đó có tổ chức đảng. Luật này quy định rõ rằng: “Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta”. Mọi quy định trong văn bản dưới luật của Chính phủ khi ban hành “thể lệ lập hội” trái với Luật này đều bị coi là vi phạm Luật và bị hủy bỏ.

- Bộ luật dân sự năm 1995 đã phân ra 9 loại pháp nhân, trong đó có 6 loại pháp nhân được điều chỉnh bởi Luật quy định quyền lập hội là: – Tổ chức chính tri, Tổ chức chính trị – xã hội, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội – nghề nghiệp, Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện. Bộ luật dân sự năm 2005 có bổ sung thêm một loại pháp nhân nằm trong hội nữa là: Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.

- Nghị định của Chính phủ số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này căn cứ vào Luật quy định quyền lập hội 1957 để ban hành “thể lệ lập hội”. Nghị định này được thay thế bởi Nghị định Chính phủ số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 với chút ít điều chỉnh, bổ sung.

- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 mà nước Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982, cam kết thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này. Khoản 1 Điều 22 Công ước này quy định: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đòan để bảo vệ lợi ích của mình”.

- Đặc biệt là quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1980 rằng “Đảng CSVN … là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội…” đã bị Hiến pháp năm 1992 hủy bỏ 2 từ “duy nhất” tại Điều 4. Tức là Hiến pháp 1992 đã không thừa nhận chế độ “độc đảng” của Đảng Cộng sản VN trong Hiến pháp 1980.

Với những những điều trình bày trên cho thấy hệ thống pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế mà VN tham gia đã có đủ căn cứ pháp lý để công dân Việt nam thành lập một đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là ý kiến cá nhân. Tôi mong có một hội thảo chính thức về vấn đề pháp lý này để mọi công dân Việt Nam được hiểu rõ hơn về một quyền chính trị rất quan trọng của mình.

———
(*) Theo Wikipedia tiếng Việt 

Nguồn: Ba Sàm.

Hoàng thành Thăng Long - KHAI QUẬT 10 NĂM CHƯA TỔNG KIỂM KÊ VÀ BÀN GIAO

Khai quật khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu, khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long
10 năm chưa tổng kiểm kê, bàn giao hiện vật
08:50 | 29/08/2013
Khai quật khảo cổ học tại 18 Hoàng Diệu, thuộc khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long đã thu được bao nhiêu di vật, thuộc những chủng loại nào? Câu hỏi này, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội, đơn vị được giao quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản này cũng không trả lời được, vì từ khi khai quật cuối năm 2002 đến nay chưa tiến hành tổng kiểm kê và bàn giao hồ sơ, hiện vật.


Ảnh: An Thành Đạt

Quyết định đầu tiên về khai quật khảo cổ tại khu vực 18 Hoàng Diệu do Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ký ngày 26.11.2002, cho phép Viện Khảo cổ học, thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (nay là Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), khai quật thăm dò khu vực xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình mới, trên diện tích 2.000m2, trong thời gian từ ngày 25.11.2002 - 31.2.2003. Tiếp đó, từ năm 2003 - 2008 còn có 4 quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, nay là Bộ VH, TT và DL, về việc khai quật khảo cổ tại khu vực này. Tất cả các quyết định đều nêu rõ: những hiện vật thu thập được trong quá trình khai quật thăm dò giao cho Sở VH - TT Hà Nội (nay là Sở VH, TT và DL Hà Nội) gìn giữ, bảo quản; sau khi kết thúc đợt khai quật, chậm nhất là 3 tháng, Viện Khảo cổ phải có báo cáo sơ bộ và sau 1 năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Bảo tồn bảo tàng (nay là Cục Di sản văn hóa). 

Tuy nhiên đến nay, toàn bộ hồ sơ, kết quả nghiên cứu hiện vật tại khu A - B và khu C - D với diện tích 13.000m2 vẫn chưa được Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam bàn giao cho thành phố Hà Nội, nên không ai nắm được số lượng cũng như chủng loại di vật đã khai quật. Năm 2010, để tổ chức triển lãm chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - đơn vị được thành lập với chức năng quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - phải ký mượn hiện vật của Viện Khảo cổ để trưng bày. Sau Đại lễ, đến nay, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam mới chỉ bàn giao 215 di vật của khu di sản. 

Chưa tổng kiểm kê và bàn giao hiện vật sẽ gây khó khăn trong việc quản lý, nghiên cứu, trưng bày, bảo tồn và phát huy giá trị của Di sản thế giới này, đưa di sản đến với công chúng; cũng như không thể thực hiện quy hoạch tổng mặt bằng khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu. Lý do chưa thể tiến hành tổng kiểm kê và bàn giao hồ sơ, hiện vật, theo công văn Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam gửi UBND thành phố Hà Nội ngày 7.11.2012, là vì đang thực hiện dự án chỉnh lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và lập hồ sơ khoa học khu di tích, nhằm từng bước hoàn thiện công trình nghiên cứu tổng thể để khẳng định tính toàn vẹn về khảo cổ học; “công tác này chỉ thực hiện được sau khi đã hoàn thành công việc chỉnh lý, nghiên cứu, đánh giá giá trị và lập hồ sơ khoa học”, dự kiến đến năm... 2025. Cũng theo công văn này, các loại hình di vật khảo cổ học khai quật được tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long ước tính khoảng vài triệu di vật. Tất cả đang được bảo quản trong hệ thống 7 nhà kho ở khu C - D, có diện tích khoảng 3.825m2 và hệ thống nhà chỉnh lý, khu văn phòng làm việc của các nhà khoa học đang thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu tại khu di tích.

Năm 2013 là thời điểm 3 năm khu di sản Trung tâm Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, theo quy định của Ủy ban Di sản thế giới, ICOMOS sẽ kiểm tra, đánh giá công tác thực hiện cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Nếu những cam kết không được thực hiện đầy đủ, đặc biệt là việc bàn giao mặt bằng khu di tích 18 Hoàng Diệu cùng toàn bộ tài liệu, hiện vật về TP Hà Nội quản lý, thì khu di sản sẽ bị cảnh cáo và có nguy cơ đưa ra khỏi danh sách Di sản thế giới.

Trước tình hình này, ngày 11.7.2013 vừa qua, UBND thành phố Hà Nội đã có văn bản đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với UBND thành phố tổng kiểm kê di tích, di vật và bàn giao toàn bộ tài liệu, hiện vật, mặt bằng tại khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu cho Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội trong năm 2013. Việc làm này cũng sẽ giúp thực hiện quy hoạch tổng mặt bằng khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu phù hợp với tiến độ hoàn thành xây dựng Nhà Quốc hội vào tháng 10.2014. Trước đó, Bộ VH, TT và DL, Hội đồng tư vấn khoa học nghiên cứu bảo tồn khu di tích Cổ Loa - Thành cổ Hà Nội đều đã có văn bản kiến nghị tổng kiểm kê di tích, di vật và bàn giao toàn bộ tài liệu, hiện vật, mặt bằng tại khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu cho Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội trong năm 2013. 

Tuy nhiên, thông báo ngày 19.8.2013, kết luận của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải tại cuộc họp về dự án Công viên lịch sử văn hóa Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, mới chỉ yêu cầu Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam bàn giao toàn bộ mặt bằng di tích khu C - D vào tháng 10.2013; “các vấn đề về hồ sơ và di vật đã khai quật tại 18 Hoàng Diệu sẽ bàn giao cho UBND thành phố Hà Nội vào giai đoạn sau” (?).
Nguyên Anh
Nguồn: Người ĐBND

Huỳnh Ngọc Chênh: AI THAY LÒNG ĐỔI DẠ?

AI THAY LÒNG ĐỔI DẠ?
Huỳnh Ngọc Chênh

Trang Ba Sàm tổng kết, đến hôm nay (29.8) đã có 18 bài viết trên hệ thống truyền thông độc quyền của đảng, phản biện lại việc "tính sổ cuộc đời" của ông Lê Hiếu Đằng và việc ông hô hào lập đảng mới để lành mạnh hóa hoạt động chính trị, để xây dựng xã hội dân sự và tiến đên dân chủ hóa đất nước.

Bài viết thì nhiều nhưng luận điệu phản biện thì giống hệt nhau, nghèo nàn và xơ cứng, đi lại cũng hô các khẩu hiệu: Con đường đi lên CNXH là chọn lựa duy nhất của dân tộc VN, đảng độc quyền lãnh đạo là tất yếu lịch sử, đảng đưa đất nước đi từ thắng lợi nầy đến thăng lợi khác, xương máu của hàng triệu đảng viên (?) góp phần làm nên thắng lợi nên đảng đời đời độc quyền lãnh đạo là đương nhiên, dân chủ VN theo kiểu của VN, dân chủ và nhà nước pháp quyền không cần đa nguyên, đa đảng sẽ đưa đến bất ổn chính trị và rối loạn xã hội...Rồi trên cái nền khẩu hiệu duy ý chí, phản khoa học và ngược ngạo ấy, các tác giả lý luận cung đình lại lặp lại cung cách truyền thống của những người bình dân nơi chợ búa vẫn làm khi muốn "phản biện " đối thủ của mình: Thóa mạ, quy chụp, chửi bới về nhân thân cũng như động cơ của ông Lê Hiếu Đằng.

Mà xuyên suốt cả cuộc đời chiến đấu và lao động trong sáng vì lý tưởng của mình, ông Đằng đã không để lại chút vẩn cợn nào để họ bấu víu vào đó mà bôi nhọ. Lại thêm, khi viết những lời tâm huyết là lúc ông Đằng đang trong những ngày đối diện với cái chết không còn ham muốn gì với danh lợi cá nhân nên không có lý do để suy diễn và quy chụp động cơ của ông là đen tối. Cuối cùng họ chỉ biết cho rằng ông là người phản bội lại lý tưởng, phản bội đảng, là người thay lòng đổi dạ...

Điều duy nhất mà hàng lô những nhà lý luận cung đình, chuyên hay thời vụ, quy chụp được ông Lê Hiếu Đằng là ông đã thay lòng đổi dạ, phản bội lại lý tưởng mà ông đã theo đuổi.

Nhưng thử hỏi lý tưởng mà ông Đằng đã theo đuổi suốt cuộc đời của mình, từ hồi trai trẻ còn cắp sách đến trường cho đến lúc gần đất xa trời là gì?

Xem xét về những gì ông đã làm, đọc qua những gì ông đã viết, mọi người thấy ngay rằng lý tưởng theo đuổi suốt cả cuộc đời của con người nầy là: đấu tranh chống bất công, chống áp bức, chống xâm lược nhằm xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, công bằng và hạnh phúc. Đó là lý tưởng chung của hàng chục triệu người VN yêu nước, cũng là lý tưởng của các phong trào Đông Du, Duy Tân, Việt Cách, Việt Minh... cũng là lý tưởng của các đảng phái chính trị: Quốc Dân, Đại việt, Cộng Sản...

Nhờ giỏi tuyên truyền, giỏi tổ chức, giỏi lợi dụng thời cơ, đảng CSVN đã vươn lên thu phục được nhiều người rồi đi đầu công trạng trong việc thực thi lý tưởng đã nêu. Lý tưởng đó của đảng CS phù hợp với lý tưởng của bộ phận lớn nhân dân VN, trong đó có người thanh niên Lê Hiếu Đằng cũng như bao thanh niên cùng trang lứa với anh ở miền Nam trước năm 1975. Một bộ phận thanh niên cũng như nhân dân miền Nam đi theo đảng CS là vì có sự phù hợp lý tưởng của nhau hoặc tưởng rằng có sự phù hợp.

Vấn đề đặt ra bây giờ là ai rời bỏ lý tưởng đó? Đảng CS hay những người đã và sắp bỏ đảng như ông Lê Hiếu Đằng?

Dưới sự lãnh đạo của đảng CS, nước VN thống nhất trong 38 năm qua đã có được những gì: Độc lập? Tự do? Dân chủ? Hạnh phúc? Công bằng? và Ấm no cho toàn dân? Hãy so sánh một cách biện chứng với chính thời gian 38 năm trong thời đại thay đổi với tốc độ tên lửa chứ đừng ngô nghê so sánh với thời điểm dừng 1975 khi trả lời câu hỏi trên.

Nhìn vào thực trạng đất nước hiện nay, ông Đằng đã đưa ngay câu trả lời. Đảng lãnh đạo hầu như lệ thuộc vào đảng Trung Cộng từ lý luận đến thực tiễn hành động. Đất nước thì bị đe dọa mất chủ quyền bởi vòng kim cô "4 tốt, 16 chữ vàng" để bị kẻ thù phương Bắc bao vây trên nhiều phương diện: Quân sự, ngoại giao, kinh tế và cả văn hóa nữa. Kinh tế thì suy sụp, xã hội thì đảo điên, áp bức bất công khắp mọi nơi, nạn tham nhũng thì càng ngày càng phát triển đến mức không còn cách để ngăn chặn...

Điều gì đã đưa đất nước đi đến thực trạng như vậy? Ông Lê Hiếu Đằng cũng như nhiều trí thức nhân sĩ trong và ngoài đảng đều có chung một nhận định: Do đảng lãnh đạo đã liên tục mắc vào các sai lầm mà không hề đúc kết rút kinh nghiệm để sửa sai. Từ trước đến nay đảng chưa hề có một lời xin lỗi với nhân dân về những sai lầm của mình. Từ đó, những người ấy nghi ngờ rằng đảng đã không còn đi trên con đường lý tưởng như ban đầu đã chọn lựa.

Hai con đường đã không còn phù hợp với nhau. Ông Đằng, giống như nhiều người khác, dù tuổi già sức yếu, lại không nghĩ ngơi vì phải tiếp tục đi theo con đường lý tưởng mà mình đã chọn lựa từ thuở ban đầu.

Ông vẫn trung thành với lý tưởng của mình tại sao lại bảo ông thay lòng đổi dạ?

PHẢI CHĂNG THÀNH UỶ HÀ NỘI ĐÃ BẢO KÊ VỤ NÀY ?

Ảnh: Sáng 29-8, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo (bên phải) đã trao quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Trọng Đông (bên trái) giữ chức Giám đốc Sở TN-MT Hà Nội từ ngày 1-9-2013 - Ảnh: Phương Tuấn.

 

Lên giám đốc Sở sau 2 năm "dính" chuyện "thi hộ"

TTO - Sáng 29-8, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã trao quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Trọng Đông, Phó bí thư quận ủy Long Biên giữ chức vụ Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường thay ông Vũ Văn Hậu về nghỉ hưu. 

Theo quyết định bổ nhiệm, ông Nguyễn Trọng Đông sinh ngày 3-9-1969, được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội với thời hạn 5 năm kể từ ngày 1-9-2013.

Trước đó, tại thời điểm năm 2011 khi giữ chức Phó giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường Hà Nội, ông Nguyễn Trọng Đông từng liên quan đến vụ "thi hộ".

Cụ thể, theo phản ánh của học viên lớp tại chức chuyên viên chính khóa 2 - Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, vào ngày 19-10-2011, học viên Nguyễn Trọng Đông, Phó giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường Hà Nội, vắng mặt trong kỳ thi hết học phần (khóa học khai giảng ngày 22-8-2011). Trong khi đó, bài thi của ông Đông do một người khác thực hiện. Người làm hộ bài thi cho ông Đông là ông Phan Thanh Quang, cán bộ Sở Tài nguyên - môi trường TP Hà Nội, đã không nộp bài và bỏ chạy khỏi phòng thi. Giám thị phải lập biên bản với sự chứng kiến của đại diện lớp.

Theo lý giải của lãnh đạo Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội tại thời điểm đó, bản tường trình của ông Đông khẳng định "không có việc nhờ đi thi hộ và trước khi đi công tác TP.HCM đã có đơn gửi Trường Lê Hồng Phong xin không tham gia kỳ thi này để thi vào lớp sau.

Tường trình của ông Quang cũng nói do nắm được lịch học của ông Đông nên vào trường mới biết có lịch thi nên đã tham gia thi. Việc tham gia thi, ông Quang khẳng định là chủ động chứ không có ai nhờ vả, thúc ép gì".

Sau đó, ông Quang bị kết luận đã vi phạm khi tự ý đi "thi hộ" cho ông Nguyễn Trọng Đông tại kỳ thi hết học phần, vì vậy ông Quang bị kỷ luật ở mức khiển trách về mặt Đảng, khiển khách về mặt chính quyền.

Riêng ông Nguyễn Trọng Đông được luân chuyển về quận Long Biên tham gia Ban chấp hành, Ban thường vụ và giữ chức Phó bí thư quận ủy Long Biên vào tháng 6-2012. 

XUÂN LONG
Nguồn: Tuổi trẻ

Dư luận đang đồn ầm lên là Thành ủy Hà Nội bảo kê vụ này. Và chức vụ GĐ Sở Tài nguyên Môi trường là chức vụ dễ kiếm tiền nên chắc cũng phải kê nhiều. Thiết nghĩ thành ủy Hà Nội nên ra một thông báo hoặc tổ chức họp báo để giải thích rõ về trường hợp vì sao không xử lý ông Đông, và vẫn cho ông phất lên như diều gặp gió vậy!